Ai ngoan sẽ được thưởng
Một buổi sáng, Bác Hồ đến thăm trại nhi đồng. Vừa thấy Bác, các em nhỏ đã ùa ra đón Bác. Em nào cũng muốn đến thật gần Bác để nhìn Bác cho rõ. Có em cứ đi giật lùi phía trước Bác. Những em nhỏ nhất cũng cố chen vào để được gần Bác hơn. Những em lớn ở ngoài cùng, đã nhìn rõ Bác rồi, vẫn cứ kiễng chân lên để nhìn cho rõ hơn.
Bác dắt tay hai em nhỏ nhất đi giữa đám trẻ. Mắt bác sáng hơn, vẻ mặt Bác hồng hào hơn lúc thường. Bác cùng các em vào phòng họp, rồi đi xem phòng ăn, phòng ngủ, nhà bếp, chổ tắm rửa. Khi trở lại phòng họp, Bác ngồi giữa các em nhỏ và hỏi:
-Các cháu chơi có vui không ?
Những tiếng trả lời non nớt vang lên:
-Thưa Bác, vui lắm ạ !
Bác lại hỏi:
-Các cháu ăn có no không ?
-No ạ !
-Các cô có mắng phạt các cháu không ?
-Không ạ !
Bác khen:
-Thế thì tốt lắm ! Bây giờ, bác chia kẹo cho các cháu. Các cháu có thích kẹo không ?
Các cháu đồng thành trả lời:
-Có ạ ! Có ạ !
Một em bé giơ tay xin nói:
-Thưa Bác, ai ngoan thì được ăn kẹo, ai không ngoan thì không được ăn ạ !
Bác hỏi:
-Các cháu có đồng ý không ?
-Đồng ý ạ ! Đồng ý ạ !
Các cháu đứng thành vòng rộng. Bác cầm từng gói kẹo đi chia cho từng cháu. Đến lượt bạn Tộ thì bạn Tộ không giơ tay nhận, chỉ khẽ thưa:
-Thưa Bác, hôm nay cháu không vâng lời cô. Cháu không ngoan, không được ăn kẹo của Bác ạ !
Bác cười trìu mến, xoa đầu đứa cháu nhỏ dũng cảm và khen:
-Cháu biết nhận lỗi, thế là ngoan lắm đấy ! Cháu vẫn được phần kẹo như các bạn khác.
Bạn Tộ mừng rỡ, cầm lấy kẹo của Bác cho.
Truyện: “ Thánh Gióng”
Chuyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một thằng bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Ðứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ. Bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Ðứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.
Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Ðám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn).Thánh Gióng về nhà dập đầu lạy mẹ, tạ ơn công nuôi dưỡng sinh thành rồi lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại,cả người lẫn ngựa từ từ bay về trời.
Vua nhớ công ơn, phong là Phù Ðổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.
Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả mầu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy .
Niềm vui bất ngờ
Vào một buổi sáng nắng đẹp, cô giáo dẫn các cháu mẫu giáo đi chơi vườn Bách thảo.
Đường đến vườn Bách thảo đi qua Phủ Chủ Tịch là nơi Bác Hồ sống và làm việc. Qua nhà Bác, các cháu thích lắm. Cháu nào cũng sung sướng reo lên:
-Nhà Bác Hồ !
-Nhà Bác Hồ đẹp quá !
-Cô ơi ! Cho chúng cháu vào thăm Bác Hồ đi !
Nơi đây vốn yên tĩnh, nay trở nên ồn ào vì mấy chục cháu nhỏ. Đồng chí công an vội ra nói với cô giáo:
-Cô giáo cho các cháu sang bên kia đường cho có trật tự !
Cô giáo tập hợp các cháu lại. Nhưng các cháu cứ ríu rít xin cô đứng lại để xem nhà Bác:
-Cô cho chúng cháu xem một tí nữa thôi, cô ạ !
-Bác Hồ đâu hả cô ?
-Sao chúng cháu không được vào thăm Bác Hồ ?
Các cháu hỏi mỗi lúc một nhiều khiến cô giáo lúng túng. Bỗng cánh cổng Phủ Chủ Tịch từ từ mở. Một đồng chí cán bộ vui vẻ nói với đồng chí công an và cô giáo cho các cháu vào. Cô giáo sung sướng hồi hộp dẫn các cháu đi theo hàng đôi vào.
-A! Bác Hồ ! Bác Hồ !
Một cháu nhỏ reo lên. Tất cả các cháu như bầy chim non bay nhanh về phía Bác. Những miệng hồng nhỏ nhắn, xinh xắn cất lên những lời cháo đáng yêu:
-Chúng cháu chào Bác ạ ! Cháu cháu chào Bác ạ !
Bác Hồ hiền từ, giản dị trong bộ áo bà ba, chân đi đôi dép cao su, tươi cười đón các cháu. Bác hỏi:
-Các cháu có ngoan không ?
-Thưa Bác, có ạ ! –Tất cả các cháu đồng thanh trả lời
-Bây giờ các cháu thích gì nào ?
-Thưa Bác chúng cháu thích vào thăm nhà Bác ạ !
-Chúng cháu thích thăm vườn của Bác ạ !
Bác dắt tay hai cháu nhỏ nhất, còn các cháu xúm xít theo Bác ra vườn. Bác vừa đi vừa chỉ cho các cháu xem những cây Bác đã trồng, xem hai cây vú sữa Miền nam và thăm ao cá Bác nuôi. Các cháu ríu rít đi quanh Bác Hồ. Bác dặn các cháu phải ngoan ngoãn, giữ gìn vệ sinh sạch sẽ và vâng lời cô giáo.
Các cháu lắng nghe Bác nói, muốn nghe mãi, muốn ở bên Bác mãi mãi. Nhưng đã đến giờ Bác tiếp khách, cô giáo phải dẫn các cháu ra về. Bác vẫy tay chào, nhìn theo các cháu. Các cháu vừa đi vừa luyến tiếc. Cháu nào cũng ngoảnh lại để cố ngắm Bác thêm một chút nữa.